Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa)
Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Tỳ-Xá-Đa nước Ma-Đột-La, cha tên Lâm-Thắng, mẹ là Kiều-Xa-Da. Ngài ở trong thai mẹ sáu năm mới sanh. Tục truyền ở Ấn-Độ khi nào cỏ Thương-Nặc-Ca sanh là có một vị thánh nhơn ra đời. Chính khi Ngài lọt lòng mẹ thì thứ cỏ ấy cũng mọc lên, vì thế cha mẹ Ngài đặt tên là Thương-Na-Hòa-Tu.
Tục truyền ngài Thương-na Hòa-tu vừa sanh ra đã sẵn có áo mặc nơi thân. Khi lớn lên dần thì áo cũng lớn theo. Đến khi A-nan, Tổ thứ hai độ cho Thương-na Hòa-tu xuất gia, thì cái áo ấy hóa ra thành pháp phục. Đến lúc ngài Thương-na Hòa-tu thọ Cụ túc giới, thì áo tự nhiên biến thành áo Tăng-già-lê. Khi gần tịch diệt, Tôn giả Thương-na Hòa-tu có phát nguyện lưu cái áo ấy lại cho đến chừng nào đạo của đức Phật Thích-ca truyền lại phải dứt đi thì áo cà-sa ấy mới bị hoại diệt.
Lúc đầu, Ngài xuất gia làm đồ đệ vị tiên ở núi Tuyết. Chính Ngài tu theo pháp tiên đã được thần thông, sau gặp Tổ A-Nan, Ngài hồi đầu trở về chánh pháp. Tổ A-Nan, thấy Ngài đã thâm ngộ diệu tâm nên truyền pháp kệ rằng:
Bổn lai truyền hửu pháp,
Truyền liễu ngôn vô pháp
Các các tu tự ngộ
Ngộ liễu vô vô pháp.
Dịch :
Xưa nay truyền có pháp
Truyền rồi nói không pháp.
Mỗi mỗi cần tự ngộ
Ngộ rồi không không pháp.
Tổ lại dặn:
- Xưa Đức Như-Lai đem đại pháp nhãn nầy trao cho Ngài Ca-Diếp, Ngài Ca- Diếp trao lại cho ta, nay ta sắp vào Niết-bàn đem trao lại cho ngươi, Ngươi phải khéo gìn giữ truyền trao không để dứt mất.
Sau khi đắc pháp nơi Tổ A-Nan, Ngài đi đến khu rừng Ưu-Lưu-Trà cất tịnh-xá hoằng hóa Phật-pháp rất hưng thịnh. Chính nơi đây, khi Phật còn tại thế có lần đi giáo hóa ngang khu rừng nầy, Phật nói với A-Nan:
Sau khi ta Niết-bàn, khoảng 100 năm, có một Tỳ-kheo tên Thương-Na-Hòa-Tu ở tại khu rừng nầy hoằng truyền chánh pháp.
Trong Kế Đăng Lục, quyển nhất ghi lại rằng:
“Khi Thương-na Hòa-tu được Tổ A-nan truyền pháp rồi, ngài đi hóa độ đã lâu, đến xứ Trá-lỵ gặp Ưu-ba-cúc-đa. Ngài hỏi rằng: Nhà ngươi được bao nhiêu tuổi?
Đáp rằng: Mười bảy.
Lại hỏi: Thân mười bảy hay Tánh mười bảy?
Đáp: Thân mười bảy, chẳng phải Tánh mười bảy.
Tổ Thương-na Hòa-tu biết là bậc pháp khí, liền xuống tóc cho. Về sau, nhận cho thọ giới cụ túc làm tỳ-kheo.
Thấy cơ duyên hóa đạo đã viên mãn, Ngài đem chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho đệ tử là Ưu-Ba-Cúc-Đa. Ngài vào núi Bạch-Tượng phía Nam nước Kế-Tân sắp vào Niết-bàn.
Nhơn trong chánh định Ngài thấy nhóm 500 người đệ tử của Ưu-Ba-Cúc-Đa thường hay lười biếng và khinh mạn, Ngài liền đến cảnh tỉnh họ.
Khi Ngài đến, Ưu-Ba-Cúc-Đa đi vắng.
Ngài lại tòa của Ưu-Ba-Cúc-Đa ngồi, đệ tử Cúc-Đa không biết Ngài là người gì ?
Tất cả đều bực tức không phục. Họ chạy báo cho Cúc-Đa hay. Cúc-Đa về đến thấy thầy mình liền đảnh lễ.
Song đệ tử vẫn còn tâm khinh mạn chẳng kính. Ngài lấy tay mặt chỉ lên hư không liền có sữa thơm chảy xuống,
Ngài bảo Cúc-Đa.:
- Ngươi biết gì chăng .
Cúc-Đa thưa:
- Chẳng biết. Cúc-Đa bèn nhập chánh định để xem xét, cũng không thể hiểu.
Cúc-Đa thưa:
- Điềm lành nầy do chánh định gì xuất hiện ?
- Đây là chánh định Long-Phấn-Tấn. Còn cả năm trăm thứ chánh định như thế mà ngươi chưa biết. Chánh định của Như-Lai, hàng Bích-Chi không thể biết. Chánh định của Bích-Chi, hàng La-Hán không thể biết. Chánh định thầy ta là A-Nan, ta cũng không biết. Nay chánh định của ta, ngươi đâu thể biết. Chánh định ấy là tâm không sanh diệt, trụ trong sức đại từ, cung kính lẫn nhau, được thế đó mới có thể biết.
- Đệ tử của Cúc-Đa trông thấy những kỳ-diệu ấy đều kính phục, chí thành sám hối. Ngài lại nói kệ :
Thông đạt phi bỉ thử
Chí thánh vô trường đoản
Nhữ trừ khinh mạn ý
Tất đắc A-La-Hán.
Dịch :
Thông suốt không kia đây
Chí thành không hay dở
Ngươi trừ tâm khinh mạn
Chóng được A-La-Hán
Sau đó, Ngài thị tịch bằng cách dùng hỏa quang tam muội thiêu thân. Thầy trò Ưu-Ba-Cúc-Đa thu nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét