Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu). Phật bảo :
-“Ta có Chính-pháp Nhãn-tạng, Diệu tâm Niết-Bàn, Pháp-môn ấy mầu nhiệm vô cùng, chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo-lý. Nay Ta trao cho Ma-Ha Ca-Diếp, vậy ông phải ân cần mà nhận lãnh, giữ gìn Chính-pháp, rồi sau sẽ truyền cho hậu thế, để nối tiếp về sau, chớ để diệt mất”.
Lúc ngài đang ở trong động Tất-Bát-La (SthaviRa) trên núi Kỳ-Xà-Quật, nghe tin Phật nhập Niết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng Sa-La, ngài và 500 đệ tử vội vã hướng về thành Câu-Thi-Na. Đến nơi, đã đễ Phật vào kim-quan, ngài buồn bã. Thầy trò đi nhiễu kim-quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật.
Sau khi nghe tin Phật nhập Niết bàn, một tỳ kheo tên là Bạt Nan Ðà mới gia nhập tăng đoàn không lâu nói như sau:
'' Khi đức Thế Tôn còn tại thế, mọi hành động đều phải bó buộc trong phạm vi giới luật, mất quyền tự do, ngày nay đức Thế Tôn đã diệt độ, từ đây trở về sau sẽ được tự do hành động, không bị giới luật ràng buộc ''
Ma-ha-ca-diếp một trong thập đại đệ tử của Phật nghe thấy và ông cho rằng sự hiểu lầm như thế rất có thể sẽ phổ biến, do vậy mà quyết định tổ chức một đại hội gồm các vị am hiểu phật pháp nhằm thống nhất nội dung tu học.
Ngài triệu tập 500 vị đại A-La-Hán tụ hợp tại núi Kỳ-Xà-Quật, trong động Tất-Bát-La kiết tập. Chỉ có tôn giả A-Nan không được dự hội, vì chưa sạch các lậu, Tôn-giả A-Nan buồn bả, suốt đêm chuyên tâm thiền-định, đến gần sáng liền chứng ngộ quả A-La-Hán. Sau đó, tôn giả được mời dự hội.
Lần kết tập thứ nhất nầy, Kinh và Luật đã hình thành, xảy ra ngay sau khi Phật nhập Niết Bàn, đó là năm Phật lịch thứ nhất, tức là năm 544 trước Tây lịch (TTL).
Giáo pháp của Phật do A Nan trình bày trở thành thánh điển Ngũ bộ (Nikaya) bằng Ba Văn hoặc thánh điển A Hàm (Agama) bằng Phạn Văn. Các điều luật do Ưu Bà Li lập đi lập lại đến 80 lần tạo thành bộ Bát Thập Tụng Luật.
Sau cuộc kiết tập đã viên mãn, nhơn duyên độ sanh đã xong xuôi, ngài Ma ha Ca Diếp thấy tuổi đã già yếu lắm, bèn gọi tôn giả A-Nan đến bảo:
- Khi Như-Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn dứt.
Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-Lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê-Túc nhập định. Liền đó, Ngài đi từ giả vua A-Xà-Thế và những người thân thuộc, rồi vào núi Kê-Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định.
Ma-ha-ca-diếp là một trong thập đại đệ tử của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni và là người tổ chức và chỉ đạo đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất. Ma-ha-ca-diếp nổi tiếng có hạnh Ðầu-đà (tu khổ hạnh) nghiêm túc nhất và là người đứng đầu Tăng-già sau khi Đức Phật nhập diệt. Ma-ha-ca-diếp là sơ tổ của Thiền tông Ấn Ðộ, được đức Phật Thích-ca truyền tâm ấn. Trong tranh tượng, Ma-ha-ca-diếp cùng với A-nan-đà thường được thể hiện đứng 2 bên Đức Phật.
4.8.16
Home »
A Nan
,
A xà thế
,
Chánh pháp nhãn tạng
,
Diệu tâm Niết bàn
,
Kỳ xà quật
,
Linh sơn
,
Tất bát la
» Tổ thứ nhất-Ma ha Ca Diếp (Phần 2)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét